Bản chép tay Cổ_sự_ký

Có hai phiên bản chép tay ‘’Kojiki’’ chính: Ise và Urabe. Bản Urabe còn lại bao gồm 36 bản chép tay tất cả đều dựa trên bản in năm 1522 của Urabe Kanenaga. Bản Ise có thể được chia thành bản chép tay Shinpukuji (真福寺本, ’’Chân Phúc Tự bản’’?) từ năm 1371-1372 và bản chép tay Dōka (道果本, ’’Đạo Quả bản’’?). Bản Dōka bao gồm:

  • Bản chép tay Dōka (道果本, ’’Đạo Quả bản’’?) năm 1381; chỉ còn nửa đầu phần 1
  • Bản chép tay Dōshō (道祥本, ’’Đạo Tường bản?) năm 1424; chỉ còn phần 1, có nhiều lỗi
  • Bản chép tay Shun'yu (春瑜本, ’’Xuân Du bản?) năm 1426; một phần

Bản chép tay Shinpukuji (1371–1372) là bản chép tay cổ nhất. Dù được phân vào nhóm Ise, nó thực chất là sự pha trộn của cả hai nhánh. Nhà sư Ken’yu chép lại bản chép tay của Ōnakatomi Sadayo. Năm 1266, Sadayo chép lại hai phần 1 và 3, nhưng không tìm được phần 2. Cuối cùng, năm 1282, ông tìm thấy phần 2 trong một bản chép tay nhóm Urabe.